Chè Tà Xùa
Chè Tà Xùa có nguồn gốc từ bản Tà Xùa, cách huyện Sơn La Bắc Yên khoảng 14 km. Cây chè ở đây khá độc đáo, cành vàng, hoa trắng, tạo nên một hương vị khó quên mà các vùng khác phải ghen tị.Chè được người dân tộc Mèo trực tiếp làm. Người ta đồn rằng cây chè lâu đời nhất là ở làng Trung Trinh.
Rót trà vào chiếc ấm chén xinh xắn của Bát Tràng, chắc chắn bạn sẽ cảm nhận được hương thơm sảng khoái của Trà Tà Xùa. Chè Tà Xùa có mùi giống chè Thái Nguyên nhưng hương vị thì không lẫn vào đâu được. Chỉ cần 1 ngụm, bạn trải nghiệm vị đắng ban đầu. Một lúc sau, vị đắng sẽ chuyển thành vị ngọt và ngấm vào cổ họng.
Khác với chè Thái Nguyên, chè Tà Xùa có màu nâu sẫm. Điều thú vị là bạn có thể cho nước vào ấm trà 4 – 5 lần và màu sắc và hương vị của chè không bị thay đổi mà vẫn giữ được hình dáng như bông hoa của lá chè.
Nậm pịa
Đi tour du lịch Tà Xùa mà không ăn nậm pịa là một thiếu sót. Có người nói rằng chỉ sau lần thử đầu tiên, món ăn này sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức của bạn. Nhưng thực hư bí mật tuyệt vời đằng sau đặc sản Sơn La này là gì?
Nậm pịa là món ăn đặc trưng của vùng này; nó có thể được phục vụ như một loại nước sốt hoặc như một món ăn chính trong bữa ăn. Khi nấu nậm pịa, người ta có thể chọn nguyên liệu từ các loại động vật quen thuộc như trâu, bò, dê, nhưng món nậm pịa phổ biến nhất là bò và dê.
Món nậm pịa ở Sơn La có phần giống thắng cố – một đặc sản của tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, nó được nấu theo một cách hoàn toàn khác. Để nấu nậm pịa bò, chúng ta cần sơ chế mọi thứ thật tươi, đặc biệt là các bộ phận khác nhau của con bò bao gồm cả nội tạng. Khi mổ xẻ con bò, người dân địa phương cẩn thận lấy phần cuối cùng của ruột của con bò và bảo quản nó. Các bước tiếp theo để nấu món ăn cũng vất vả. Sau khi ninh xương bò trong nhiều giờ cho đến khi nước sốt sánh lại, chúng ta đổ tất cả nguyên liệu vào nồi và tiếp tục đun trong nhiều giờ. Khi nước sốt đạt màu nâu cánh gián thì cho phần ruột bò vào, đun trong khoảng một giờ.
Bước tiếp theo, và cũng là bước thiết yếu, là thêm một loại gia vị địa phương có tên là mắn khén cũng như sả, gừng và tỏi. Khi ăn, sẽ thấy nậm pịa lúc đầu có vị đắng, sau đó sẽ trở nên ngọt ngào và béo ngậy.
Pa pỉnh tộp
Pa Pỉnh Tộp là món cá nướng. Món ăn này cần có nhiều loại gia vị như tần bì, gừng, sả, ớt tươi, rau mùi, rau thơm, hành tươi, húng quế.
Cá được tuyển chọn kỹ càng. Chẳng hạn, cá chép cần có trọng lượng khoảng 2-4 lạng và thường được nuôi trong ao hoặc sông. Cá được xẻ dọc sống lưng, để nguyên nội tạng. Mổ bỏ mật cá, nhồi gia vị vào bụng cá trước khi gập làm đôi và luồn qua vòng miệng.
Khi các gia vị đã được tẩm ướp đều, cá được đặt trên vỉ tre tươi và nướng trên than hồng. Pa Pỉnh Tộp phải được nướng chín đều để giữ được hương vị tự nhiên của cá. Khi cá chín sẽ có mùi thơm phức của các loại gia vị.
Bánh dày
Tết của người Mông sẽ không bao giờ trọn vẹn nếu thiếu Bánh dày, đặc sản mà tạo hóa đã ban tặng cho đồng bào này. Là biểu tượng của trái đất tròn với môi trường trong lành, bánh dày là món ăn ngon mà chỉ người Mông mới có thể chế biến đúng cách.
Tất cả các thành phần được sử dụng để làm món ăn này đều đến từ thiên nhiên. Trước hết, phải chọn gạo Nếp Nương ngon nhất trên những ngọn đồi cao nhất. Họ lọc loại gạo mềm, thơm và tinh khiết này trước khi phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Tuy nhiên, do nắng gắt có thể làm gạo bị gãy, mất đi mùi thơm nên người ta thường chỉ phơi gạo vào sáng sớm hoặc chiều mát. Gạo sấy khô sẽ còn giữ một lớp màng mỏng bao bọc lấy hương thơm bên trong những hạt nhỏ
Gạo sau đó được nấu trong những chiếc nồi lớn cho đến khi hương thơm lan tỏa khắp nơi. Sau đó, lúa sẽ được xay bởi những thanh niên khỏe mạnh nhất trong khi những người phụ nữ bắt đầu chuẩn bị lá dong để gói bánh. Từng chiếc lá được rửa kỹ bằng nước từ đầu suối và lau lại bằng vải sạch.
Khi những người đàn ông hoàn thành công việc xay bột của mình, bột sẽ được giao cho những người phụ nữ khéo léo. Điều thú vị là gạo càng được xay nhiều thì bột càng trắng. Từng miếng bột nóng hổi, không tì vết được đặt trên chiếc lá dong và gói lại cẩn thận.
Chiếc bánh dày cuối cùng có màu trắng tinh khiến nó trở nên nổi bật và hấp dẫn hơn nhiều trên nền lá xanh. Vì bánh có thể bảo quản được khá lâu nên chúng ta có thể phục vụ nó theo nhiều cách khác nhau, trong những dịp khác nhau.
Thịt trâu gác bếp
Một món ăn phổ biến khác của Tà Xùa là thịt trâu khô. Phơi khô thực phẩm là phương pháp bảo quản phổ biến của người Thái, và thịt trâu khô là món ngon nổi tiếng ở đây. Tuy nhiên, không phải lúc nào người Thái cũng làm được thịt trâu khô. Chỉ trong dịp Tết hoặc các lễ cúng lớn, khi nhà mổ trâu, người ta mới để lại một ít để làm món ăn này.
Để làm món này, người Thái thường chọn phần thịt ở phần bắp, ít gân nhất. Trước khi chặt thành những miếng đều nhau dài khoảng 15 cm, rộng 7-8 cm, dày 2-3 cm, người ta loại bỏ hết gân. Sau đó, họ ướp thịt trong khoảng 2 – 3 tiếng với hỗn hợp gia vị gồm muối, đường, ớt, sả, tỏi, gừng và mắc khén (một loại gia vị chỉ có ở vùng núi).
Thịt sau đó được xiên que và phơi khô dưới nắng hoặc trên gác bếp. Sau khi phơi khô, có thể ăn ngay hoặc treo trên gác bếp để dùng dần. Món ăn này có hương vị đặc biệt, có vị cay của ớt, vị nồng của tỏi, vị ngọt của thịt và mùi thơm đặc trưng của khói.
Các món từ rêu
Rêu xanh là đặc sản quý của người Thái sinh sống ở những vùng nhiều sông suối như Quỳnh Nhai, Phú Yên, Sông Mã nhưng ngon và thơm nhất chỉ có thể tìm thấy ở chính dòng sông Mã.
Trong những dịp đặc biệt như năm mới, sinh nhật, hay đãi khách, rêu xanh là một phần không thể thiếu trong bữa ăn. Rêu xanh có thể chế biến thành nhiều món ăn độc đáo như gỏi rêu, rêu hấp, rêu nấu măng đắng và canh gà, rêu hầm xương, rêu xào xôi,…
Cháo mắc nhung
Cháo mắc nhung (hay còn gọi là cháo đắng Phú Yên) được chế biến từ loại quả xanh, cùng họ với cà chua, nhưng kích thước nhỏ hơn và có vị ngọt, đắng. Sau khi thu hái và rửa sạch, người ta trộn với gạo tấm, gừng, sả. Hỗn hợp này sau đó được bọc trong lá chuối trước khi chôn trong tro bếp nóng. Món ăn sẽ hoàn thành sau 30 phút và có vị cay, đắng, ngọt rất hợp với xôi.
Cơm lam
Cơm lam – món ăn truyền thống của người Thái ở vùng Tây Bắc, được làm đơn giản bằng gạo tẻ. Theo phong tục của người Thái, Cơm lam chỉ được làm sau khi thu hoạch lúa, sử dụng gạo nếp nương ngâm qua đêm rồi cho vào ống nứa. Sau đó cho lượng nước vừa đủ vào ống nứa, buộc lại bằng lá chuối hoặc lá dong và đun trên bếp củi. Món ăn chín hoàn toàn khi vỏ tre cháy sém, nước chảy ra và mùi thơm của gạo lan tỏa.
Sau khi nấu chín, ống nứa được tách ra, để lại một lớp mỏng như lụa mang cơm. Lớp màng lụa này có vị hơi mặn và khói, hương rừng, làm tăng thêm hương vị của gạo. Cơm lam thường được ăn với muối vừng hoặc muối vừng tùy theo sở thích của mỗi người.
Ở Tà Xùa, người dân địa phương cũng ăn cơm lam với chẩm chéo – một loại nước chấm đặc trưng của người Thái. Chẩm chéo được làm từ hỗn hợp muối băm nhỏ, ớt tươi nướng, rau mùi và tro gai Ấn Độ. Cơm lam thường được bán vào mùa đông vì loại ống tre để nướng chỉ có vào mùa này.
Gỏi da trâu
Gỏi da trâu là một món ăn đặc biệt vì nó đòi hỏi rất nhiều công sức để chuẩn bị. Đầu tiên, để làm mềm độ dai và cứng của da, họ hơ trên lửa rồi ngâm vào nước lạnh. Dùng một con dao bén, họ lạng lớp da trâu dày thành những lát mỏng vàng óng.
Để làm món ăn, người ta cho các loại gia vị và rau thơm như lạc, me, rau mùi, mắc khén vào da trâu. Điều đặc biệt làm nên món nộm da trâu chính là hương vị của nước măng chua. Để nước chua này ngon, người ta ngâm măng tươi trong nước suối và thêm các gia vị cần thiết.
Rượu táo mèo Tà Xùa
Được làm từ táo mèo, một loại trái cây có nguồn gốc từ vùng núi Tây Bắc. Rượu táo mèo Tà Xùa có mùi thơm đặc trưng và thường được dùng trong các bữa tiệc.
Người dân miền núi thường rót rượu gạo vào quả Táo Mèo đã lên men. Để có được rượu táo mèo ngon, thời gian ủ rượu phải lên đến 6-8 tháng, sau đó rượu sẽ có màu hơi vàng, từ một năm trở đi rượu sẽ có màu nâu đỏ, khi uống sẽ có vị chua nhẹ, khá dễ uống.
Bình luận (0)